Các nhánh Vibhajyavāda

Bản đồ các hướng truyền bá Phật giáo dưới triều đại Ashoka.

Vibhajyavādin không được các truyền thống Phật giáo nguyên thủy ghi lại một cách thống nhất như là một bộ phái riêng biệt, cũng như không gắn liền với bất kỳ một khoảng thời gian nào.[18] Một số học giả tin rằng không có bộ phái "Vibhajyavāda" riêng biệt, nhưng thuật ngữ vibhajyavāda đôi khi được gắn vào tên của một trường phái để chỉ ra rằng nó khác với trường phái chính về một số học thuyết.[20] Theo nghĩa này, họ sẽ là những vibhajyavādin của trường phái cụ thể đó.[20]

Tên này đã được áp dụng cho nhiều cộng đồng tăng sĩ trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Một số nhóm chính gồm:

  • Dharmaguptaka, chủ yếu ở phía Tây Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ nhưng cũng lan rộng dọc theo các tuyến đường thương mại Trung Á. Theo Richard Salomon, nhánh này tham gia vào hoạt động truyền giáo và chiếm ưu thế ở Gandhara trong thế kỷ thứ nhất su Công nguyên.
  • Kāśyapīya, có lẽ nằm trong cùng khu vực với Dharmaguptaka.
  • Mahīśāsaka, như trên nhưng cũng có ở các vùng khác của lục địa Ấn Độ.
  • Tambapaṇṇiya (sa. Tamraparṇiya, sau này được gọi là Mahāvihāravāsin và Theravada), được thành lập ở Sri Lanka (tại Anuradhapura) nhưng cũng hoạt động ở Andhra và các vùng khác của Nam Ấn Độ (Vanavasa ở Karnataka hiện đại) và sau đó trên khắp Đông Nam Á. Bằng chứng chữ khắc đã được tìm thấy ở Amaravati và Nagarjunakonda.[3]

Bhante Sujato, trong bài tổng quan về các bộ phái Dharmaguptaka và Mahāvihāravāsin, đã lập luận rằng sự chia rẽ giữa họ không phải do bất kỳ sự khác biệt nào về giáo lý hay giới luật, mà chi đơn thuần do khoảng cách địa lý.[21]

Theo LS Cousins, sự hình thành của các bộ phái này có lẽ là từ các hoạt động truyền giáo vào khoảng thời kỳ vua A Dục và vào các vùng Kashmir, Gandhara, Bactria, AndhraSri Lanka.[3] Ông kết luận:

Vibhajjavadin thực sự là trường phái chiếm ưu thế ở Ceylon và Gandhara vào thời kỳ đầu, cũng như có mặt, nếu không muốn nói là chiếm ưu thế, ở các khu vực khác của Trung Á, Trung Quốc, Nam Ấn Độ và Đông Nam Á muộn nhất là vào khoảng thế kỷ thứ III. Không có trường phái nào khác có mức tương đương vào thời điểm này.[3]